Sinh sản nhân tạo là gì? Các công bố khoa học về Sinh sản nhân tạo

Certainly! Here is a summary of the provided content in a text format.```txtSinh sản nhân tạo là kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, phát triển để hỗ trợ hoặc thay thế sinh sản tự nhiên ở người và động vật. Các phương pháp gồm thụ tinh trong ống nghiệm (IVF), tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI), và thụ tinh nhân tạo (AI), giúp nhiều cặp vợ chồng vô sinh và cá nhân có con. Lợi ích gồm khả năng loại trừ bệnh di truyền và giúp cặp đồng giới, nhưng có hạn chế như chi phí cao, nguy cơ sức khỏe và vấn đề đạo đức. Sinh sản nhân tạo mở ra cơ hội nhưng cũng đặt ra thách thức đạo đức và pháp lý.```

Giới Thiệu về Sinh Sản Nhân Tạo

Sinh sản nhân tạo, hay còn gọi là kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, là một lĩnh vực y học phát triển nhằm hỗ trợ hoặc thay thế quá trình sinh sản tự nhiên ở con người và động vật. Các kỹ thuật này đã giúp nhiều cặp vợ chồng không thể có con do các vấn đề y khoa hoặc yếu tố khác có thể thụ thai và sinh con.

Các Phương Pháp Sinh Sản Nhân Tạo

Thụ Tinh Trong Ống Nghiệm (IVF)

Thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) là phương pháp phổ biến nhất trong các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Quy trình bao gồm việc lấy trứng từ buồng trứng của người phụ nữ và thụ tinh với tinh trùng trong phòng thí nghiệm. Phôi sau đó được cấy vào tử cung của người phụ nữ.

Tiêm Tinh Trùng Vào Bào Tương Noãn (ICSI)

ICSI là một kỹ thuật trong đó một tinh trùng duy nhất được tiêm trực tiếp vào một trứng để đạt được thụ tinh. Phương pháp này thường được sử dụng khi người chồng có vấn đề về tinh trùng hoặc nếu có các thất bại trước đó với IVF truyền thống.

Thụ Tinh Nhân Tạo (AI)

Thụ tinh nhân tạo là quá trình đưa tinh trùng trực tiếp vào tử cung của người phụ nữ để tạo cơ hội cho thụ tinh tự nhiên xảy ra. Phương pháp này thường được sử dụng khi cặp đôi gặp khó khăn trong việc thụ thai do các vấn đề như rối loạn chức năng tinh trùng hoặc những hạn chế khác.

Lợi Ích và Hạn Chế của Sinh Sản Nhân Tạo

Lợi Ích

  • Giúp các cặp vợ chồng vô sinh có cơ hội có con.
  • Cho phép các cặp đồng giới hoặc người độc thân có cơ hội làm cha mẹ.
  • Có khả năng loại trừ các bệnh di truyền nhờ chẩn đoán di truyền phôi.

Hạn Chế

  • Chi phí điều trị cao và không phải lúc nào cũng thành công.
  • Nguy cơ biến chứng về sức khỏe cho cả mẹ và con.
  • Vấn đề đạo đức liên quan đến việc lựa chọn phôi, bảo quản và sử dụng phôi dư thừa.

Các Vấn Đề Đạo Đức và Xã Hội

Sinh sản nhân tạo đặt ra nhiều câu hỏi về đạo đức và xã hội. Một số người tranh luận về quyền của phôi và việc lựa chọn phôi dựa trên các yếu tố di truyền. Ngoài ra, vấn đề sinh sản cho các cặp đồng giới và người độc thân cũng đang là chủ đề thảo luận rộng rãi.

Kết Luận

Sinh sản nhân tạo đã mang lại hy vọng cho nhiều cặp đôi trên thế giới, nhưng cũng gợi lên nhiều thách thức về mặt đạo đức và pháp lý. Với sự tiến bộ của khoa học, lĩnh vực này dự kiến sẽ còn phát triển mạnh mẽ, mở ra nhiều khả năng mới cho các cặp đôi mong muốn có con.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "sinh sản nhân tạo":

Thực trạng năng lực khởi nghiệp sáng tạo và nhận thức về giáo dục khởi nghiệp sáng tạo cho sinh viên Trường Đại học Nông lâm - Đại học Huế
Tạp chí Giáo dục - - Trang 44-48 - 2021
Mục tiêu của nghiên cứu này là tìm hiểu thực trạng năng lực khởi nghiệp sáng tạo và nhận thức về giáo dục khởi nghiệp sáng tạo cho sinh viên Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế. Kết quả nghiên cứu là tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà nghiên cứu, các chủ thể quản lí, các lực lượng giáo dục có liên quan nghiên cứu, đề xuất những tác động phù hợp, nâng cao hiệu quả hoạt động giáo dục khởi nghiệp sáng tạo cho sinh viên, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện cho sinh viên trong bối cảnh đổi mới giáo dục đại học hiện nay.
#năng lực #nhận thức #khởi nghiệp sáng tạo #giáo dục khởi nghiệp sáng tạo #sinh viên
NGHIÊN CỨU KÍCH THÍCH CÁ BÓP (RACHYCENTRON CANADUM) SINH SẢN BẰNG HORMON KHÁC NHAU
Tạp chí Khoa học Đại học cần Thơ - - Trang 132-137 - 2014
Nghiên cứu kích thích sinh sản cá bóp bằng hormon HCG và LHRHa với các liều lượng khác nhau đã được thực hiện. Nguồn cá bố mẹ được dùng trong nghiên cứu là từ nguồn cá được nuôi vỗ và khối lượng cá dao động từ 10 ? 12 kg/con. Các loại hormone và liều lượng được sử dụng trong nghiên cứu bao gồm: (i) Không tiêm (cá đẻ tự nhiên); (ii) HCG được tiêm với 3 liều  250; 500; 750 UI/kg cá cái và (iii) LHRHa cũng được tiêm với 3 liều lượng 20; 30 và 40 mg/kg cá cái. Cá cái và cá đực được tiêm cùng một thời gian và tiêm 1 lần. Với mỗi liều lượng tiêm từ 3 ? 5 cặp cá bố mẹ. Cá đực được tiêm với liều bằng ẵ liều lượng cá cái. Kết quả cho thấy, thời gian hiệu ứng dao động từ 36 ? 62 giờ và tỷ lệ cá đẻ dao động từ 25-80%, với chất kích thích LHRH-a 20 và 30àg/kg thì tỷ lệ đẻ đạt cao nhất (80%). Sức sinh sản thực tế trung bình dao động từ 76.601 ? 91.058 trứng/kg/lần. Tỷ lệ thụ tinh của trứng ở nghiệm thức không tiêm và tiêm 20àg LHRH-a, 30àg LHRH-a cho kết quả tốt hơn (73,17 ? 84,44%) so với các nghiệm thức còn lại và tỷ lệ nở cũng đạt cao nhất (74,24 ? 83,58%). Tóm lại, trong sinh sản nhân tạo cá bóp thì tiêm LHRH-a với liều 20-30 àg/kg được khuyến cáo áp dụng.
#Cá bóp #Rachycentron canadum #sinh sản nhân tạo
Nghiên cứu thuần hóa cá ong bầu (rhynchopelates oxyrhynchus temminck & schlegel, 1842) phục vụ sinh sản nhân tạo ở vùng đầm phá Thừa Thiên Huế
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp - Tập 2 Số 2 - Trang 759-766 - 2018
Nghiên cứu thuần hóa cá Ong bầu nhằm mục tiêu xác định ngưỡng điều kiện môi trường phục vụ cho việc thuần hóa cá bố mẹ Ong bầu đạt kết quả tốt. Thời gian thực hiện từ 5/1 – 8/5/2016. Cá Ong bầu phục vụ thí nghiệm được thu mua chủ yếu ở xã Quảng Công và thị trấn Thuận An. Các yếu tố môi trường theo dõi bao gồm nhiệt độ, hàm lượng oxy hoà tan (DO), pH, độ mặn và loại thức ăn ưa thích của cá. Kết quả cho thấy cá tạp là loại thức ăn ưa thích nhất cho cá Ong bầu, với tỷ lệ điểm đạt cao nhất vào ngày thứ 5, với thức ăn công nghiệp thì tỉ lệ điểm cao nhất đạt vào ngày thứ 7. Ngưỡng nhiệt độ chịu đựng của cá khá cao, dao động từ 16 ÷ 340C. Đối với pH môi trường nuôi thì ngưỡng giá trị trên và dưới gây chết cá là 4,5 và 9,5. Độ mặn thích hợp cho sinh trưởng và phát triển của cá Ong bầu trong khoảng từ 5 ÷ 35‰, hiện tượng cá chết được ghi nhận với độ mặn môi trường nuôi 0‰. ABSTRACTThe experimental domestication of (Rhynchopelates oxyrhynchus Temminck & Schlegel, 1842) to determine threshold environmental conditions, serving domestication broodstock fish have a good result. The period time of experiments conducted 5/1- 8/5/2016. Broodstock fish collected from two main areas (Quang Cong commune and Thuan An town). The monitor environmental factors including temperature, dissolved oxygen, pH, salinity and favourable feed. The results showed that trash fish was the favourable feed of Rhynchopelates oxyrhynchus, with the highest score peaked at day 5. Smilarly, artificial pellet was reached highest score at day 7. The temperature threshold was wide with a range of 16 ÷ 340C, meanwhile the values for pH was recorded at 4.5 ÷ 9.5. The favourable salinity for the growth of Ong bau ranged from 5 to 35‰. Noticeably, the mortal phenomenon of Ong bau started at 0‰ of salinity.
#Cá Ong bầu #cá tạp #độ mặn #ngưỡng nhiệt độ #thuần hóa #Ong bau #trashfish #salinity #temperature threshold #domestication
NGHIÊN CỨU KÍCH THÍCH SINH SẢN NHÂN TẠO CÁ CHỐT TRẮNG (MYSTUS PLANICEPS, CUVIER AND VALENCIENNES)
Tạp chí Khoa học Đại học cần Thơ - Số 25 - Trang 125-131 - 2013
Cá chốt trắng (Mystus planiceps, Cuvier và Valenciennes) là loài cá bản địa có giá trị kinh tế ở đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam. Nghiên cứu kích thích sinh sản nhân tạo cá chốt trắng được thực hiện với 6 nghiệm thức: LHRHa+DOM 50; 100 và 150 àg/kg cá cái,  HCG 1.000; 1.500 và 2.000 UI/kg cá cái. Mỗi liều lượng của từng loại được tiêm ít nhất 10 con cá cái. Sau 6-7 giờ tiêm với LHRHa+DOM hoặc 7-8 giờ tiêm HCG, cá có tác dụng gây chín và rụng trứng ở hầu hết các nghiệm thức ngoại trừ ở HCG 2.000 UI/kg cá cái. Tỷ lệ sinh sản cao nhất 83,3% ở LHRHa+DOM 100 àg/kg cá cái trong khi đó tỷ lệ thụ tinh cao nhất (81,1%) và tỷ lệ nở (82,2%) ở HCG 1.500 UI/kg cá cái. Trứng cá chốt trắng được ấp ở các độ mặn 0, 10, 20 và 30 ppt với mật độ 200 trứng/L. Kết quả cho thấy trứng cá chốt trắng có thể nở ở tất cả các độ mặn từ 0 đến 30ppt, và tỷ lệ nở cao nhất (72%) ở độ mặn 10ppt. Thời gian nở là 22,2 giờ ở nhiệt độ trung bình 28,3oC. Cá chốt trắng (Mystus planicepts) có thể kích thích sinh sản nhân tạo với LHRHa+DOM 100 àg/kg cá cái hoặc HCG 1.500 UI/kg cá cái.
#Cá chốt trắng #sinh sản #Ấp trứng và độ mặn
ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG THÀNH THỤC VÀ THỬ NGHIỆM SẢN XUẤT GIỐNG CÁ BỖNG (SPINIBARBUS DENTICULATUS OSHIMA, 1926) NUÔI TRONG AO ĐẤT TẠI QUẢNG BÌNH: EVALUATION ON SEXUAL MATURITY AND ARTIFICIAL REPRODUCTIVITY OF FISH BONG (Spinibarbus denticulatus Oshima, 1926) CULTURED IN THE EARTHEN IN QUANG BINH PROVINCE, VIETNAM
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp - Tập 5 Số 2 - Trang 2501-2507 - 2021
Cá Bỗng là loài có thịt mềm, thơm ngon, giá trị kinh tế cao, được xem là loài cá đặc sản nước ngọt hàng đầu ở miền Bắc. Tuy nhiên, sản lượng loài cá này liên tục sụt giảm do khai thác quá mức trong thời gian gần đây. Nghiên cứu này nhằm mục đích hoàn thiện quy trình sản xuất giống để phát triển nuôi ở tỉnh Quảng Bình và góp phần bảo vệ nguồn lợi cá Bỗng nói chung. Kết quả nghiên cứu cho thấy kích thước thành thục sinh dục lần đầu của cá khi nuôi trong ao đất có chiều dài là 48,6 ± 1,85 cm và khối lượng trung bình là 3,05 ± 0,22 kg với cá cái; 41,7 ± 1,97 cm và 2,76 ± 0,18 kg với cá đực. Mùa vụ sinh sản cá Bỗng nuôi trong ao từ tháng 3 đến tháng 6. Tỷ lệ thành thục cao nhất đạt 100% ở cá đực và 90% ở cá cái vào tháng 5. Hỗn hợp kích dục tố phù hợp để kích thích sinh sản cá Bỗng là LRHa + DOM với liều lượng sử dụng hiệu quả nhất là (40 μg LRHa + 10mg DOM)/kg cá cái. Với điều kiện nuôi ở Quảng Bình, thời gian hiệu ứng của cá Bỗng là 15,1 – 20,2 giờ, tỷ lệ đẻ đạt 100%. Sức sinh sản thực tế của cá Bỗng từ 3.797 - 4.491 trứng/kg cá cái. Thời gian nở của trứng dao động từ 70 - 72 giờ ở nhiệt độ nước 24 - 28oC. Tỷ lệ thụ tinh và tỷ lệ nở trung bình đạt 76,6 - 84,6% và 74,1 - 81,1%. Năng suất cá bột trung bình dao động từ 2188 - 2938 con/kg cá cái. ABSTRACT Ca Bong (Spinibarbus denticulatus Oshima, 1926) is a high economic value fish species with tender flesh, well taste that is considered the top freshwater fish in the Northern Viet Nam. This study was conducted to improve the process of this fish species production for aquaculture development in Quang Binh province and contribute to conserve this indigenous fish species. The results showed that the first size of sexual maturity was 48,6 cm in lengh and 3,05 kg in weight on average for females; 41,7 cm and 2,76 kg for males. Spawning season started from March to early of June. The highest maturity rate was 100% in males and 90% in females in May. The suitable hormone to spawning fish was LRHa + DOM, effective dosage was (40 μg LRHa + 10mg DOM)/kg females live weight (LW) with spawning rate 100%; Actual fecundity of this species fluctuated from 3.797 to 4.491 eggs/kg LW females while fry productivity was from 2188 to 2938 fries/kg females LW. Effective time 15,1 - 20,2 hours; fertilization rate and hatching rate 76,6 - 84,6% and 74,1 - 81,1%, respectively, have been achieved.  
#Cá Bỗng #Hormone sinh dục #Sinh sản nhân tạo #Thành thục #Bong fish #Fish production #Hormone #Maturity
ĐÁNH GIÁ MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NÔNG SINH HỌC CỦA CÁC VẬT LIỆU SẮN (Manihot EsculentaCrantz) TRÊN ĐỒNG RUỘNG VÀ SÀNG LỌC KHẢ NĂNG KHÁNG BỆNH KHẢM LÁ CMV TRONG ĐIỀU KIỆN LÂY NHIỄM NHÂN TẠO BẰNG PHƯƠNG PHÁP GHÉP
Tạp chí Khoa học Nông nghiệp Việt Nam - Tập 18 Số 12 - Trang 1114-1121 - 2024
Nghiên cứu này được tiến hành nhằm đánh giá một số đặc điểm của 14 vật liệu sắn trong nước và nhập nội trong điều kiện ở Gia Lâm, Hà Nội và đánh giá khả năng kháng bệnh của các vật liệu thông qua thí nghiệm lây nhiễm nhân tạo bằng phương pháp ghép. Các vật liệu được trồng trên đồng ruộng trong một thí nghiệm tuần tự không nhắc lại, theo dõi một số đặc điểm nông sinh học. Các vật liệu cho thu hoạch sau 8-11 tháng trồng. Chiều cao cây của các vật liệu ở mức trung bình và dao động không nhiều (165,2-183,2cm), có 6 vật liệu có phân cành. Hầu hết các vật liệu chỉ có 1 thân/khóm, CM15, CM21 có 2 thân/khóm và CM60 có 3 thân/khóm. Số củ/cây của các vật liệu dao động từ 4,3-15,8 củ/cây. Khối lượng củ tươi cao nhất ở CM15 (5,0 kg/cây) và 2 giống đối chứng (5,26-5,82 kg/cây). Sử dụng phương pháp ghép, sau 2 tuần thu được 40 cây ghép thành công của 13 vật liệu. Kiểm tra kiểu gen của các cây ghép này bằng chỉ thị JSP1/JSP2 và JSP1/JSP3 đã xác định được sự có mặt của ACMV ở 8 vật liệu (CM2, CM3, CM8, CM15, CM20, CM60, KM140 và KM94). Đánh giá mức độ nhiễm bệnh của các vật liệu sau ghép 3 tháng, xác định nhóm vật liệu kháng gồm CM15, CM16, CM21, CM60, CM88 và ĐC2 (KM94), nhóm kháng cao gồm CM50 và CM61.
#Cassava #cassava mosaic virus CMV #artificial infection
Sự phá vỡ sự tách biệt môi trường sống giữa ba loài Hexagrammos do những biến đổi môi trường sống nhân tạo tạo ra môi trường sống phân tầng Dịch bởi AI
Ecological Research - Tập 25 - Trang 41-50 - 2009
Tại các khu vực ven biển của Nhật Bản, ba loài cá xanh (Hexagrammos spp.) có thể lai chéo với nhau. Trong một môi trường rạn san hô tự nhiên, chúng tôi đã chỉ ra rằng Hexagrammos agrammus và H. octogrammus thiết lập lãnh thổ sinh sản của chúng ở khu vực nông với sự phong phú của tảo biển, trong khi H. otakii thiết lập lãnh thổ sinh sản ở khu vực sâu mà cỏ tảo phủ thưa thớt. Sự khác biệt trong cách sử dụng môi trường sống này đã dẫn đến việc H. otakii phân bố tách biệt khỏi hai loài còn lại, do đó giảm khả năng lai ghép. Tuy nhiên, cả ba loài này đều xuất hiện cùng nhau ở một khu vực nhân tạo gần mỏ chắn sóng. Khu vực này được đặc trưng bởi độ dốc cao và các cấu trúc bê tông phức tạp được chồng lên nhau, tạo ra một môi trường sống phân tầng bao gồm môi trường nông với cỏ tảo và môi trường sâu với cỏ tảo thưa thớt, cho phép cả ba loài sinh sản trong cùng một khu vực. Kết quả của chúng tôi gợi ý rằng các cấu trúc do con người tạo ra có thể tạo ra một môi trường sống phân tầng nhân tạo có thể làm gián đoạn sự tách biệt môi trường sống và thúc đẩy sự lai ghép giữa các loài.
#Hexagrammos #lai ghép #môi trường sống nhân tạo #môi trường sống phân tầng #sinh sản
Phản Chiếu Trong Một Hồ Nuôi Thủy Sản: Các Hệ Sinh Thái Nước Ngọt Xuất Phát Từ Hoạt Động Nhân Thế Có Là Tự Nhiên, Nhân Tạo Hay Là Một Thứ Gì Khác? Dịch bởi AI
Environmental Management - Tập 36 - Trang 625-639 - 2005
“Một tòa nhà chọc trời cũng tự nhiên như một chiếc tổ của chim” – Alan Watts. Trong suốt hàng thiên niên kỷ, con người đã trực tiếp thay đổi các hệ sinh thái nước ngọt thông qua việc phát triển nguồn nước và gián tiếp qua những thay đổi toàn cầu cũng như các hoạt động sử dụng đất xung quanh. Trong những hệ sinh thái đã được thay đổi này, tác động của con người có thể rất tinh tế và đôi khi bị bỏ qua bởi những người quản lý chúng. Bài báo này trình bày hai nghiên cứu trường hợp gần Boulder, Colorado, thể hiện việc nhận thức về các hệ sinh thái này ảnh hưởng đến công tác quản lý của chúng. Những ví dụ này điển hình cho các hồ và dòng suối dọc theo dãy núi Front Range của Colorado, vừa mang nguồn gốc tự nhiên vừa có yếu tố xã hội. Mặc dù tự nhiên, nhiều hệ sinh thái nước ngọt trong khu vực này bị ảnh hưởng bởi các sự thay đổi sinh thái, thủy văn, hóa học và địa hình đang diễn ra do hoạt động của con người. Con người và thiên nhiên đều là những tác nhân tích cực trong quá trình hình thành các hệ sinh thái nước ngọt này. Khái niệm “tính hỗn hợp,” được mượn từ các nhà địa lý và các nhà khoa học xã hội, rất hữu ích để mô tả những không gian mang nguồn gốc tự nhiên và xã hội. Các hệ sinh thái nước ngọt hỗn hợp là đặc điểm của cảnh quan bị ảnh hưởng bởi con người và được hình thành từ các hoạt động văn hóa có chủ đích, các quá trình vật lý và sinh học không phải con người, cùng với những xáo trộn do con người gây ra. Sự nhận thức của chúng ta về các hệ sinh thái nước ngọt “tự nhiên” và các định nghĩa mà chúng ta sử dụng để mô tả chúng ảnh hưởng đến quan điểm của chúng ta về các hệ thống hỗn hợp và, đến lượt mình, ảnh hưởng đến các quyết định quản lý liên quan đến chúng. Công trình này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hiểu những lực lượng xã hội và giá trị văn hóa nền tảng chịu trách nhiệm cho việc hình thành các hệ sinh thái nước ngọt hỗn hợp như một bước quan trọng trong việc bảo tồn và quản lý chúng.
#Hệ sinh thái nước ngọt hỗn hợp #quản lý tài nguyên nước #tác động của con người #nhận thức về môi trường #bảo tồn sinh thái.
Nghiên cứu sản xuất giống cá bông lau (Pangasius krempfi Fang & Chaux 1949) tại Đồng Tháp
Cá bông lau được thu thập từ tự nhiên và nuôi nhốt trong bè trên sông Tiền thuộc tỉnh Đồng Tháp. Kích cỡ cá nuôi vỗ thành thục từ 2,7 - 3,5 kg/con. Bè nuôi vỗ có thể tích 100 m3. Mật độ thả 3 - 5 kg/m3. Thức ăn cho cá là thức ăn viên công nghiệp có hàm lượng đạm 40%, khẩu phần 1% khối lượng thân/ngày. Cá bố mẹ đã thành thục tốt và mùa vụ sinh sản từ tháng 8 đến tháng 11.Sử dụng kích dục tố HCG với tổng liều cho cá cái trung bình là 6.500 UI/kg cá cái và cá đực 2.000 UI/kg. Trong 2 năm 2016 và 2017, số cá cái rụng trứng đạt tỷ lệ 90,95%. Tỷ lệ thụ tinh trung bình 93,75%. Ấp trứng khử dính trong bình weise, tỷ lệ nở của trứng trung bình 84,9%.Kết quả ương cá giống cho thấy, ương từ cá bột đến 30 ngày tuổi trong bể, mật độ 40 con/m2 và ương cá giống từ 31 đến 60 ngày tuổi, mật độ 30 con/m2 đều đạt tỷ lệ sống cao nhất (94,1±3,7% và 88,2±3,2%).Thực nghiệm trong ao đất, ương từ cá bột đến 30 ngày tuổi ở mật độ 30 con/m2 và ương cá giống từ 31 đến 60 ngày tuổi ở mật độ 15 con/m2 đều đạt tỷ lệ sống cao nhất (84,3±2,4% và 62,5±4,2%). Kết quả nghiên cứu đã nâng cao tỷ lệ thành thục cá bố mẹ, giảm số lần tiêm kích dục tố cho cá cái, giảm thiểu tỷ lệ cá bố mẹ bị chết khi cho đẻ. Ương nuôi cá bột lên cá hương giống trong ao đất đã nâng cao được sản lượng cá giống.
#thành thục sinh dục #ương nuôi #cá bông lau #sinh sản nhân tạo
Đo lường Chất lượng Môi trường sống cho Thủy điểu Nhỏ trong một Đầm lầy Nhân tạo bằng Cách Sử dụng Máy bay Không người lái Nhỏ Dịch bởi AI
Wetlands - Tập 34 - Trang 527-533 - 2014
Các đầm lầy nhân tạo đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn loài Thủy điểu Nhỏ (Ixobrychus exilis) bằng cách bù đắp cho sự mất mát của các đầm lầy tự nhiên. Vào năm 2011, chúng tôi đã nghiên cứu mối quan hệ giữa môi trường sống của một quần thể lớn sinh sản tại một khu vực 128 ha mà chủ yếu là cỏ mần, do đói ngắn hạn tại Quebec. Chúng tôi đã khảo sát các cá thể thủy điểu và ghi lại các thông số môi trường sống tại 30 điểm, sử dụng một hệ thống máy bay không người lái (UAS) nhỏ để thu thập dữ liệu che phủ đất ở quy mô tinh vi. Một phương pháp lựa chọn mô hình dựa trên tiêu chí thông tin Akaike (AIC) đã chỉ ra rằng mật độ sinh sản được dự đoán tốt nhất bởi độ che phủ cỏ mần kết hợp với mật độ rìa nước-thực vật (trọng số Akaike = 0,88). Mật độ sinh sản không liên quan đến độ sâu của nước, trái ngược với một nghiên cứu trước đó tại khu vực này sau khi một sự cố vỡ đê làm giảm mức nước một cách đáng kể, gợi ý rằng ở trên một ngưỡng độ sâu nhất định, các sở thích môi trường sống khác sẽ được ưu tiên hơn. Chúng tôi khuyến nghị rằng việc quản lý các đầm lầy nhân tạo cho Thủy điểu Nhỏ nên tập trung vào việc duy trì mức nước ổn định ít nhất là 25 cm trung bình trong mùa sinh sản và điều chỉnh chúng theo cần thiết sau này để thúc đẩy các điều kiện nửa đầm lầy. UAS có thể nâng cao nghiên cứu và giám sát môi trường sống đầm lầy bằng cách cải thiện độ chính xác và hiệu quả của việc thu thập dữ liệu ở hiện trường đồng thời giảm thiểu sự rối loạn so với các cuộc khảo sát trên mặt đất.
#Thủy điểu Nhỏ #đầm lầy nhân tạo #máy bay không người lái #môi trường sống #mật độ sinh sản
Tổng số: 22   
  • 1
  • 2
  • 3