Sinh sản nhân tạo là gì? Các công bố khoa học về Sinh sản nhân tạo

Certainly! Here is a summary of the provided content in a text format.```txtSinh sản nhân tạo là kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, phát triển để hỗ trợ hoặc thay thế sinh sản tự nhiên ở người và động vật. Các phương pháp gồm thụ tinh trong ống nghiệm (IVF), tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI), và thụ tinh nhân tạo (AI), giúp nhiều cặp vợ chồng vô sinh và cá nhân có con. Lợi ích gồm khả năng loại trừ bệnh di truyền và giúp cặp đồng giới, nhưng có hạn chế như chi phí cao, nguy cơ sức khỏe và vấn đề đạo đức. Sinh sản nhân tạo mở ra cơ hội nhưng cũng đặt ra thách thức đạo đức và pháp lý.```

Giới Thiệu về Sinh Sản Nhân Tạo

Sinh sản nhân tạo, hay còn gọi là kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, là một lĩnh vực y học phát triển nhằm hỗ trợ hoặc thay thế quá trình sinh sản tự nhiên ở con người và động vật. Các kỹ thuật này đã giúp nhiều cặp vợ chồng không thể có con do các vấn đề y khoa hoặc yếu tố khác có thể thụ thai và sinh con.

Các Phương Pháp Sinh Sản Nhân Tạo

Thụ Tinh Trong Ống Nghiệm (IVF)

Thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) là phương pháp phổ biến nhất trong các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Quy trình bao gồm việc lấy trứng từ buồng trứng của người phụ nữ và thụ tinh với tinh trùng trong phòng thí nghiệm. Phôi sau đó được cấy vào tử cung của người phụ nữ.

Tiêm Tinh Trùng Vào Bào Tương Noãn (ICSI)

ICSI là một kỹ thuật trong đó một tinh trùng duy nhất được tiêm trực tiếp vào một trứng để đạt được thụ tinh. Phương pháp này thường được sử dụng khi người chồng có vấn đề về tinh trùng hoặc nếu có các thất bại trước đó với IVF truyền thống.

Thụ Tinh Nhân Tạo (AI)

Thụ tinh nhân tạo là quá trình đưa tinh trùng trực tiếp vào tử cung của người phụ nữ để tạo cơ hội cho thụ tinh tự nhiên xảy ra. Phương pháp này thường được sử dụng khi cặp đôi gặp khó khăn trong việc thụ thai do các vấn đề như rối loạn chức năng tinh trùng hoặc những hạn chế khác.

Lợi Ích và Hạn Chế của Sinh Sản Nhân Tạo

Lợi Ích

  • Giúp các cặp vợ chồng vô sinh có cơ hội có con.
  • Cho phép các cặp đồng giới hoặc người độc thân có cơ hội làm cha mẹ.
  • Có khả năng loại trừ các bệnh di truyền nhờ chẩn đoán di truyền phôi.

Hạn Chế

  • Chi phí điều trị cao và không phải lúc nào cũng thành công.
  • Nguy cơ biến chứng về sức khỏe cho cả mẹ và con.
  • Vấn đề đạo đức liên quan đến việc lựa chọn phôi, bảo quản và sử dụng phôi dư thừa.

Các Vấn Đề Đạo Đức và Xã Hội

Sinh sản nhân tạo đặt ra nhiều câu hỏi về đạo đức và xã hội. Một số người tranh luận về quyền của phôi và việc lựa chọn phôi dựa trên các yếu tố di truyền. Ngoài ra, vấn đề sinh sản cho các cặp đồng giới và người độc thân cũng đang là chủ đề thảo luận rộng rãi.

Kết Luận

Sinh sản nhân tạo đã mang lại hy vọng cho nhiều cặp đôi trên thế giới, nhưng cũng gợi lên nhiều thách thức về mặt đạo đức và pháp lý. Với sự tiến bộ của khoa học, lĩnh vực này dự kiến sẽ còn phát triển mạnh mẽ, mở ra nhiều khả năng mới cho các cặp đôi mong muốn có con.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "sinh sản nhân tạo":

Thực trạng năng lực khởi nghiệp sáng tạo và nhận thức về giáo dục khởi nghiệp sáng tạo cho sinh viên Trường Đại học Nông lâm - Đại học Huế
Tạp chí Giáo dục - - Trang 44-48 - 2021
Mục tiêu của nghiên cứu này là tìm hiểu thực trạng năng lực khởi nghiệp sáng tạo và nhận thức về giáo dục khởi nghiệp sáng tạo cho sinh viên Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế. Kết quả nghiên cứu là tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà nghiên cứu, các chủ thể quản lí, các lực lượng giáo dục có liên quan nghiên cứu, đề xuất những tác động phù hợp, nâng cao hiệu quả hoạt động giáo dục khởi nghiệp sáng tạo cho sinh viên, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện cho sinh viên trong bối cảnh đổi mới giáo dục đại học hiện nay.
#năng lực #nhận thức #khởi nghiệp sáng tạo #giáo dục khởi nghiệp sáng tạo #sinh viên
NGHIÊN CỨU KÍCH THÍCH CÁ BÓP (RACHYCENTRON CANADUM) SINH SẢN BẰNG HORMON KHÁC NHAU
Tạp chí Khoa học Đại học cần Thơ - - Trang 132-137 - 2014
Nghiên cứu kích thích sinh sản cá bóp bằng hormon HCG và LHRHa với các liều lượng khác nhau đã được thực hiện. Nguồn cá bố mẹ được dùng trong nghiên cứu là từ nguồn cá được nuôi vỗ và khối lượng cá dao động từ 10 ? 12 kg/con. Các loại hormone và liều lượng được sử dụng trong nghiên cứu bao gồm: (i) Không tiêm (cá đẻ tự nhiên); (ii) HCG được tiêm với 3 liều  250; 500; 750 UI/kg cá cái và (iii) LHRHa cũng được tiêm với 3 liều lượng 20; 30 và 40 mg/kg cá cái. Cá cái và cá đực được tiêm cùng một thời gian và tiêm 1 lần. Với mỗi liều lượng tiêm từ 3 ? 5 cặp cá bố mẹ. Cá đực được tiêm với liều bằng ẵ liều lượng cá cái. Kết quả cho thấy, thời gian hiệu ứng dao động từ 36 ? 62 giờ và tỷ lệ cá đẻ dao động từ 25-80%, với chất kích thích LHRH-a 20 và 30àg/kg thì tỷ lệ đẻ đạt cao nhất (80%). Sức sinh sản thực tế trung bình dao động từ 76.601 ? 91.058 trứng/kg/lần. Tỷ lệ thụ tinh của trứng ở nghiệm thức không tiêm và tiêm 20àg LHRH-a, 30àg LHRH-a cho kết quả tốt hơn (73,17 ? 84,44%) so với các nghiệm thức còn lại và tỷ lệ nở cũng đạt cao nhất (74,24 ? 83,58%). Tóm lại, trong sinh sản nhân tạo cá bóp thì tiêm LHRH-a với liều 20-30 àg/kg được khuyến cáo áp dụng.
#Cá bóp #Rachycentron canadum #sinh sản nhân tạo
Nghiên cứu thuần hóa cá ong bầu (rhynchopelates oxyrhynchus temminck & schlegel, 1842) phục vụ sinh sản nhân tạo ở vùng đầm phá Thừa Thiên Huế
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp - Tập 2 Số 2 - Trang 759-766 - 2018
Nghiên cứu thuần hóa cá Ong bầu nhằm mục tiêu xác định ngưỡng điều kiện môi trường phục vụ cho việc thuần hóa cá bố mẹ Ong bầu đạt kết quả tốt. Thời gian thực hiện từ 5/1 – 8/5/2016. Cá Ong bầu phục vụ thí nghiệm được thu mua chủ yếu ở xã Quảng Công và thị trấn Thuận An. Các yếu tố môi trường theo dõi bao gồm nhiệt độ, hàm lượng oxy hoà tan (DO), pH, độ mặn và loại thức ăn ưa thích của cá. Kết quả cho thấy cá tạp là loại thức ăn ưa thích nhất cho cá Ong bầu, với tỷ lệ điểm đạt cao nhất vào ngày thứ 5, với thức ăn công nghiệp thì tỉ lệ điểm cao nhất đạt vào ngày thứ 7. Ngưỡng nhiệt độ chịu đựng của cá khá cao, dao động từ 16 ÷ 340C. Đối với pH môi trường nuôi thì ngưỡng giá trị trên và dưới gây chết cá là 4,5 và 9,5. Độ mặn thích hợp cho sinh trưởng và phát triển của cá Ong bầu trong khoảng từ 5 ÷ 35‰, hiện tượng cá chết được ghi nhận với độ mặn môi trường nuôi 0‰. ABSTRACTThe experimental domestication of (Rhynchopelates oxyrhynchus Temminck & Schlegel, 1842) to determine threshold environmental conditions, serving domestication broodstock fish have a good result. The period time of experiments conducted 5/1- 8/5/2016. Broodstock fish collected from two main areas (Quang Cong commune and Thuan An town). The monitor environmental factors including temperature, dissolved oxygen, pH, salinity and favourable feed. The results showed that trash fish was the favourable feed of Rhynchopelates oxyrhynchus, with the highest score peaked at day 5. Smilarly, artificial pellet was reached highest score at day 7. The temperature threshold was wide with a range of 16 ÷ 340C, meanwhile the values for pH was recorded at 4.5 ÷ 9.5. The favourable salinity for the growth of Ong bau ranged from 5 to 35‰. Noticeably, the mortal phenomenon of Ong bau started at 0‰ of salinity.
#Cá Ong bầu #cá tạp #độ mặn #ngưỡng nhiệt độ #thuần hóa #Ong bau #trashfish #salinity #temperature threshold #domestication
NGHIÊN CỨU KÍCH THÍCH SINH SẢN NHÂN TẠO CÁ CHỐT TRẮNG (MYSTUS PLANICEPS, CUVIER AND VALENCIENNES)
Tạp chí Khoa học Đại học cần Thơ - Số 25 - Trang 125-131 - 2013
Cá chốt trắng (Mystus planiceps, Cuvier và Valenciennes) là loài cá bản địa có giá trị kinh tế ở đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam. Nghiên cứu kích thích sinh sản nhân tạo cá chốt trắng được thực hiện với 6 nghiệm thức: LHRHa+DOM 50; 100 và 150 àg/kg cá cái,  HCG 1.000; 1.500 và 2.000 UI/kg cá cái. Mỗi liều lượng của từng loại được tiêm ít nhất 10 con cá cái. Sau 6-7 giờ tiêm với LHRHa+DOM hoặc 7-8 giờ tiêm HCG, cá có tác dụng gây chín và rụng trứng ở hầu hết các nghiệm thức ngoại trừ ở HCG 2.000 UI/kg cá cái. Tỷ lệ sinh sản cao nhất 83,3% ở LHRHa+DOM 100 àg/kg cá cái trong khi đó tỷ lệ thụ tinh cao nhất (81,1%) và tỷ lệ nở (82,2%) ở HCG 1.500 UI/kg cá cái. Trứng cá chốt trắng được ấp ở các độ mặn 0, 10, 20 và 30 ppt với mật độ 200 trứng/L. Kết quả cho thấy trứng cá chốt trắng có thể nở ở tất cả các độ mặn từ 0 đến 30ppt, và tỷ lệ nở cao nhất (72%) ở độ mặn 10ppt. Thời gian nở là 22,2 giờ ở nhiệt độ trung bình 28,3oC. Cá chốt trắng (Mystus planicepts) có thể kích thích sinh sản nhân tạo với LHRHa+DOM 100 àg/kg cá cái hoặc HCG 1.500 UI/kg cá cái.
#Cá chốt trắng #sinh sản #Ấp trứng và độ mặn
ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG THÀNH THỤC VÀ THỬ NGHIỆM SẢN XUẤT GIỐNG CÁ BỖNG (SPINIBARBUS DENTICULATUS OSHIMA, 1926) NUÔI TRONG AO ĐẤT TẠI QUẢNG BÌNH: EVALUATION ON SEXUAL MATURITY AND ARTIFICIAL REPRODUCTIVITY OF FISH BONG (Spinibarbus denticulatus Oshima, 1926) CULTURED IN THE EARTHEN IN QUANG BINH PROVINCE, VIETNAM
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp - Tập 5 Số 2 - Trang 2501-2507 - 2021
Cá Bỗng là loài có thịt mềm, thơm ngon, giá trị kinh tế cao, được xem là loài cá đặc sản nước ngọt hàng đầu ở miền Bắc. Tuy nhiên, sản lượng loài cá này liên tục sụt giảm do khai thác quá mức trong thời gian gần đây. Nghiên cứu này nhằm mục đích hoàn thiện quy trình sản xuất giống để phát triển nuôi ở tỉnh Quảng Bình và góp phần bảo vệ nguồn lợi cá Bỗng nói chung. Kết quả nghiên cứu cho thấy kích thước thành thục sinh dục lần đầu của cá khi nuôi trong ao đất có chiều dài là 48,6 ± 1,85 cm và khối lượng trung bình là 3,05 ± 0,22 kg với cá cái; 41,7 ± 1,97 cm và 2,76 ± 0,18 kg với cá đực. Mùa vụ sinh sản cá Bỗng nuôi trong ao từ tháng 3 đến tháng 6. Tỷ lệ thành thục cao nhất đạt 100% ở cá đực và 90% ở cá cái vào tháng 5. Hỗn hợp kích dục tố phù hợp để kích thích sinh sản cá Bỗng là LRHa + DOM với liều lượng sử dụng hiệu quả nhất là (40 μg LRHa + 10mg DOM)/kg cá cái. Với điều kiện nuôi ở Quảng Bình, thời gian hiệu ứng của cá Bỗng là 15,1 – 20,2 giờ, tỷ lệ đẻ đạt 100%. Sức sinh sản thực tế của cá Bỗng từ 3.797 - 4.491 trứng/kg cá cái. Thời gian nở của trứng dao động từ 70 - 72 giờ ở nhiệt độ nước 24 - 28oC. Tỷ lệ thụ tinh và tỷ lệ nở trung bình đạt 76,6 - 84,6% và 74,1 - 81,1%. Năng suất cá bột trung bình dao động từ 2188 - 2938 con/kg cá cái. ABSTRACT Ca Bong (Spinibarbus denticulatus Oshima, 1926) is a high economic value fish species with tender flesh, well taste that is considered the top freshwater fish in the Northern Viet Nam. This study was conducted to improve the process of this fish species production for aquaculture development in Quang Binh province and contribute to conserve this indigenous fish species. The results showed that the first size of sexual maturity was 48,6 cm in lengh and 3,05 kg in weight on average for females; 41,7 cm and 2,76 kg for males. Spawning season started from March to early of June. The highest maturity rate was 100% in males and 90% in females in May. The suitable hormone to spawning fish was LRHa + DOM, effective dosage was (40 μg LRHa + 10mg DOM)/kg females live weight (LW) with spawning rate 100%; Actual fecundity of this species fluctuated from 3.797 to 4.491 eggs/kg LW females while fry productivity was from 2188 to 2938 fries/kg females LW. Effective time 15,1 - 20,2 hours; fertilization rate and hatching rate 76,6 - 84,6% and 74,1 - 81,1%, respectively, have been achieved.  
#Cá Bỗng #Hormone sinh dục #Sinh sản nhân tạo #Thành thục #Bong fish #Fish production #Hormone #Maturity
Sự phá vỡ sự tách biệt môi trường sống giữa ba loài Hexagrammos do những biến đổi môi trường sống nhân tạo tạo ra môi trường sống phân tầng Dịch bởi AI
Ecological Research - Tập 25 - Trang 41-50 - 2009
Tại các khu vực ven biển của Nhật Bản, ba loài cá xanh (Hexagrammos spp.) có thể lai chéo với nhau. Trong một môi trường rạn san hô tự nhiên, chúng tôi đã chỉ ra rằng Hexagrammos agrammus và H. octogrammus thiết lập lãnh thổ sinh sản của chúng ở khu vực nông với sự phong phú của tảo biển, trong khi H. otakii thiết lập lãnh thổ sinh sản ở khu vực sâu mà cỏ tảo phủ thưa thớt. Sự khác biệt trong cách sử dụng môi trường sống này đã dẫn đến việc H. otakii phân bố tách biệt khỏi hai loài còn lại, do đó giảm khả năng lai ghép. Tuy nhiên, cả ba loài này đều xuất hiện cùng nhau ở một khu vực nhân tạo gần mỏ chắn sóng. Khu vực này được đặc trưng bởi độ dốc cao và các cấu trúc bê tông phức tạp được chồng lên nhau, tạo ra một môi trường sống phân tầng bao gồm môi trường nông với cỏ tảo và môi trường sâu với cỏ tảo thưa thớt, cho phép cả ba loài sinh sản trong cùng một khu vực. Kết quả của chúng tôi gợi ý rằng các cấu trúc do con người tạo ra có thể tạo ra một môi trường sống phân tầng nhân tạo có thể làm gián đoạn sự tách biệt môi trường sống và thúc đẩy sự lai ghép giữa các loài.
#Hexagrammos #lai ghép #môi trường sống nhân tạo #môi trường sống phân tầng #sinh sản
10. BÁO CÁO CÁC CA LÂM SÀNG ĐIỀU TRỊ NHIỄM TRÙNG KHỚP NHÂN TẠO BẰNG SPACER XI MĂNG KHÁNG SINH CÓ CHỨC NĂNG VẬN ĐỘNG
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 65 Số CD11 - Trang - 2024
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả lâm sàng của việc sử dụng khuôn đúc xi măng kháng sinh động tự chế trong điều trị nhiễm trùng khớp nhân tạo, qua các ca bệnh được điều trị tại Bệnh viện Chấn Thương Chỉnh Hình TP.HCM từ năm 2022 đến 2024. Phương pháp: Nghiên cứu thực hiện trên 4 bệnh nhân nhiễm trùng khớp nhân tạo, bao gồm 2 ca nhiễm trùng khớp gối và 2 ca spacer khớp háng. Các bệnh nhân được điều trị bằng khối xi măng kháng sinh có chức năng vận động, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho phẫu thuật thay lại khớp ở thì 2. Phương pháp này được so sánh với các phương pháp sử dụng spacer tĩnh không có chức năng vận động. Kết quả: Sau thời gian theo dõi, tất cả bệnh nhân đã cải thiện về mặt lâm sàng, nhiễm trùng được kiểm soát và không có biến chứng nghiêm trọng nào xảy ra. Khả năng vận động và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân được cải thiện rõ rệt, giúp họ giảm đau nhanh chóng và có thể vận động ngay trong giai đoạn hậu phẫu. Kết luận: Sử dụng khuôn đúc xi măng kháng sinh động là một giải pháp đơn giản, tiết kiệm, và hiệu quả, giúp cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân và tạo điều kiện thuận lợi cho phẫu thuật thay lại khớp ở thì 2. Phương pháp này đặc biệt phù hợp với các cơ sở y tế có nguồn lực hạn chế.
#nhiễm trùng khớp nhân tạo #xi măng kháng sinh #spacer động #thay khớp hai giai đoạn #phẫu thuật chỉnh hình
MicroRNA-374a, -4680, và -133b ức chế sự sinh sản tế bào thông qua điều hòa các gen liên quan đến khuyết hổng vòm miệng ở người trong các tế bào vòm miệng nhân tạo Dịch bởi AI
BMC Medical Genomics - Tập 12 - Trang 1-13 - 2019
Khuyết hổng vòm miệng (CP) là khuyết tật bẩm sinh phổ biến thứ hai; tuy nhiên, mối quan hệ giữa các gen liên quan đến CP và sự điều hòa biểu sinh vẫn còn chưa được biết đến nhiều. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã điều tra sự đóng góp của microRNA (miRNA) vào sự sinh sản tế bào và điều hòa các gen tham gia vào sự phát triển của CP. Để xác định tất cả các gen mà có đột biến hoặc liên kết đã được tìm thấy ở những người bị CP, chúng tôi đã tiến hành tìm kiếm tài liệu có hệ thống, tiếp theo là các phân tích sinh tin học cho những gen này. Chúng tôi xác nhận kết quả sinh tin học một cách thực nghiệm bằng cách thực hiện các thử nghiệm sinh sản tế bào và phân tích điều hòa miRNA-gen trong các tế bào trung mô vòm miệng người được nuôi cấy và điều trị bằng từng mô phỏng miRNA. Chúng tôi xác định được 131 gen liên quan đến CP trong đánh giá hệ thống. Phân tích sinh tin học cho thấy các gen CP liên quan đến các con đường tín hiệu, microRNA (miRNA), các con đường chuyển hóa và sự sinh sản tế bào. Tổng cộng có 17 miRNA được công nhận là các yếu tố tiềm năng điều chỉnh các gen CP của người. Để xác nhận chức năng của miRNA trong sự sinh sản tế bào, nguyên nhân chính gây ra CP, chúng tôi đã thực hiện các thử nghiệm sinh sản/sống sót tế bào cho 11 miRNA ứng viên hàng đầu từ phân tích sinh tin học của chúng tôi. Việc biểu hiện quá mức miR-133b, miR-374a-5p, và miR-4680-3p dẫn đến sự giảm hơn 30% hoạt động sinh sản tế bào trong các nền văn hóa tế bào trung mô vòm miệng người. Chúng tôi phát hiện rằng một số gen mục tiêu CP phía hạ lưu được dự đoán bởi các phân tích sinh tin học đã bị giảm đáng kể thông qua việc kích thích các miRNA này (FGFR1, GCH1, PAX7, SMC2 và SUMO1 bởi miR-133b; ARNT, BMP2, CRISPLD1, FGFR2, JARID2, MSX1, NOG, RHPN2, RUNX2, WNT5A và ZNF236 bởi miR-374a-5p; và ERBB2, JADE1, MTHFD1 và WNT5A bởi miR-4680-3p) trong các tế bào nuôi cấy. Kết quả của chúng tôi chỉ ra rằng miR-374a-5p, miR-4680-3p và miR-133b điều hòa sự biểu hiện của các gen liên quan đến bệnh lý của khuyết hổng vòm miệng ở người, cung cấp cái nhìn về mối liên hệ giữa các gen liên quan đến CP và các mục tiêu tiềm năng của miRNA trong sự phát triển vòm miệng.
#khuyết hổng vòm miệng #microRNA #sự sinh sản tế bào #gen liên quan #điều hòa biểu sinh #tế bào trung mô vòm miệng
Vai trò của các nhà đầu tư mạo hiểm trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo khu vực: so sánh các mô hình mạng lưới giữa các quỹ đầu tư mạo hiểm tư nhân và các quỹ được công khai hỗ trợ Dịch bởi AI
The Journal of Technology Transfer - Tập 44 - Trang 850-873 - 2017
Bài báo này thực hiện một nghiên cứu thực nghiệm về sự phát triển của các mạng lưới xã hội giữa các nhà đầu tư mạo hiểm và các chuyên gia khác trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo khu vực. Bằng cách sử dụng một khảo sát trực tuyến đối với các nhà đầu tư mạo hiểm, bài viết xem xét hành vi mạng lưới của họ, đặc biệt chú trọng đến sự phân biệt giữa những người làm việc cho các quỹ đầu tư mạo hiểm tư nhân và những người làm việc cho các quỹ được công khai hỗ trợ, cũng như thành phần và sự tìm kiếm không gian trong các mạng lưới của họ. Nó nghiên cứu liệu tần suất tương tác giữa các nhà đầu tư mạo hiểm và các thành viên khác trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo có liên quan đến tính chất của các quỹ đầu tư mạo hiểm hay không. Bài báo cung cấp điều tra chi tiết đầu tiên về mối quan hệ giữa các loại nhà đầu tư mạo hiểm khác nhau và các yếu tố khác trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo như các vườn ươm đại học, các viện nghiên cứu và các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp. Kết quả cho thấy có sự khác biệt rõ rệt trong hai nhóm nghề nghiệp có vẻ tương tự (nhà đầu tư mạo hiểm tư nhân và công cộng), và sự phụ thuộc vào công của quỹ đầu tư mạo hiểm có mối liên hệ mạnh mẽ và đáng kể với tần suất tương tác cao hơn. Càng phụ thuộc nhiều vào công, thì quỹ càng tương tác nhiều hơn với các yếu tố khác trong hệ thống đổi mới sáng tạo. Phát hiện này có ý nghĩa quan trọng đối với cả các học giả và thực tiễn và gợi ý rằng các quỹ được công khai hỗ trợ có một vai trò lớn hơn trong việc huy động các yếu tố khác trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo khu vực.
#nhà đầu tư mạo hiểm #hệ sinh thái đổi mới sáng tạo #quỹ đầu tư mạo hiểm tư nhân #quỹ được công khai hỗ trợ #mạng lưới xã hội
Tình trạng sinh sản của các loài chim nước liên quan đến các đặc điểm của ao nhân tạo: Những ảnh hưởng đối với thiết kế các cơ sở tưới tiêu Dịch bởi AI
Biodiversity and Conservation - Tập 14 - Trang 1627-1639 - 2005
Sự phát triển của hệ thống chuyển nước giữa các lưu vực và sự phát triển các cơ sở tưới tiêu mới ở đông nam Tây Ban Nha đã gây ra nhiều tác động sinh thái khác nhau. Tuy nhiên, việc xây dựng các ao nhân tạo để tích trữ nước cho nông nghiệp cường độ cao cũng có thể cung cấp các môi trường sống mới cho các loài chim nước sinh sản. Chúng tôi đã đếm số lượng chim nước trong mùa sinh sản tại các ao nhân tạo được xây dựng từ các vật liệu khác nhau và đo lường các thuộc tính vô sinh và hữu sinh của chúng. Chúng tôi phát hiện ra rằng các ao này được sử dụng làm môi trường sinh sản và tìm kiếm thức ăn bởi 22 loài chim nước khác nhau và số lượng sinh sản của một số loài dường như cao hơn trong các cơ sở nhân tạo này so với các vùng đất ngập nước tự nhiên và bán tự nhiên gần đó. Sự phong phú và đa dạng của các loài chim nước sinh sản bị ảnh hưởng bởi vật liệu xây dựng. Các ao được xây dựng từ polyethylene mật độ thấp và được phủ cát và đá giữ lại nhiều loài hơn và số lượng của chúng cao hơn so với những ao được xây dựng từ các vật liệu nhựa khác. Sự hiện diện của thực vật nổi và thực vật ngập chìm cũng như các thuộc tính vô sinh như kích thước ao đã chiếm phần lớn sự sai lệch khi mô hình hóa sự phong phú và số lượng loài.
#chim nước #ao nhân tạo #sinh sản #ảnh hưởng sinh thái #thiết kế cơ sở tưới tiêu
Tổng số: 12   
  • 1
  • 2